Bệnh thủy đậu (trái rạ) do virus có tên Varicella Zoster gây ra, thường xuất hiện vào cuối đông, đầu xuân kéo dài sang hè, hay gặp ở trẻ dưới 10 tuổi, có thể trở thành dịch ở nhà trẻ, trường học. Bệnh lây qua đường hô hấp do tiếp xúc với virus qua nước bọt, dịch tiết mũi hoặc dịch từ các nốt phỏng vỡ ra. Bệnh thường xuất hiện với các triệu chứng sau:
- Khởi phát: Giống như với những trường hợp nhiễm các loại virus khác, người bệnh có thể có biểu hiện sốt, đau đầu, đau cơ, một số trường hợp nhất là trẻ em có thể không có triệu chứng báo trước.
- Khi phát bệnh: Cơ thể người bệnh sẽ xuất hiện những “nốt rạ” – nốt ban phỏng nước. Những nốt này có đặc điểm là nốt nhỏ tròn nhỏ xuất hiện nhanh trong vòng 12 – 24 giờ, các nốt này sẽ tiến triển thành những mụn nước, bóng nước, dịch trong, thường hay ngứa, có thể mọc khắp toàn thân hay mọc rải rác trên cơ thể, số lượng trung bình khoảng 100 – 500 nốt. Trong trường hợp bình thường những mụn nước này khô đi, trở thành vảy và tự khỏi hoàn toàn trong 4 – 5 ngày. Những trường hợp bội nhiễm, phỏng nước sẽ có màu đục, vàng... Ban phỏng nước có chứa virus nên khi tiếp xúc với dịch trong nốt rạ này sẽ lây nhiễm cho người lành. Ở trẻ em, thủy đậu thường kéo dài khoảng 5 – 10 ngày dẫn đến việc phải nghỉ học.
Khi trẻ bị thủy đậu cần được phát hiện sớm, cách ly để tránh lây lan và cần chăm sóc đúng cách tránh những biến chứng của bệnh. Bệnh thường lành tính nhưng đôi khi gây ra những biến chứng nguy hiểm như viêm màng não, xuất huyết, nhiễm trùng huyết, nhiễm trùng nốt rạ, viêm mô tế bào, viêm gan,... thậm chí tử vong. Vì vậy, để việc điều trị cho trẻ bị thủy đậu đạt hiệu quả cần kết hợp với chế độ chăm sóc đúng cách. Dưới đây là một số lưu ý khi chăm sóc trẻ bị thủy đậu:
- Vì là bệnh có thể lây qua đường hô hấp và tiếp xúc trực tiếp với dịch nốt phỏng nên khi trẻ bị thủy đậu, việc đầu tiên là gia đình nên cách ly trẻ tại nhà cho tới khi khỏi hẳn. Trẻ cần nằm trong phòng riêng, thoáng khí, có ánh sáng mặt trời. Thời gian cách ly là khoảng 7 đến 10 ngày từ lúc bắt đầu phát hiện bệnh (phát ban) cho đến khi các nốt phỏng nước khô vảy hoàn toàn.
- Trường hợp bất kỳ ai tiếp xúc với trẻ bị thủy đậu đều phải đeo khẩu trang tránh lây nhiễm. Cần vệ sinh tay bằng xà phòng hoặc dung dịch sát khuẩn trước và sau khi chăm sóc trẻ. Đặc biệt những phụ nữ đang mang thai cần tuyệt đối tránh tiếp xúc với người bệnh.
- Giữ bàn tay cho trẻ thật sạch. Đối với trẻ nhỏ nên cắt móng tay cho trẻ, giữ móng tay trẻ sạch hoặc có thể dùng bao tay vải để bọc tay trẻ nhằm tránh biến chứng nhiễm trùng da thứ phát do trẻ gãi gây trầy xước các nốt phỏng nước.
- Thay quần áo và tắm rửa hàng ngày bằng nước ấm sạch. Nên mặc quần áo rộng, nhẹ, mỏng. Mặc quần áo vải mềm, thấm hút mồ hôi và đặc biệt chú ý tới việc đảm bảo vệ sinh da cho trẻ để tránh xảy ra biến chứng.
- Trẻ nên sử dụng các vật dụng sinh hoạt cá nhân riêng: khăn mặt, cốc, chén, bát, đũa.
- Cho trẻ ăn các thức ăn lỏng, dễ tiêu, bổ sung thực phẩm giàu vitamin C, uống nhiều nước.
- Vệ sinh vùng mũi họng hàng ngày cho trẻ bằng dung dịch nước muối sinh lý 0,9%.
- Lưu ý để nốt phỏng tự vỡ, tránh làm vỡ các nốt phỏng vì sẽ để lại sẹo và dễ bị bội nhiễm vi khuẩn. Dùng dung dịch xanh Milian (xanh Methylene) để chấm lên các nốt phỏng nước đã vỡ.
Một số thức ăn nên kiêng khi bị thủy đậu:
- Thức ăn nhiều dầu mỡ, thức ăn quá bổ dưỡng
- Thức ăn cay nóng như các loại gia vị gừng, tỏi, ớt, hạt tiêu, quế....
- Một sốloại thịt như thịt dê, thịt chó, thịt gà, thịt ngan, các loại hải sản
- Trái cây có tính nóng như mận, đào, vải, nhãn...
Khi trẻ bị thủy đậu cần được phát hiện sớm nhằm cách ly và có hướng chăm sóc đúng cách tránh những biến chứng của bệnh. Bệnh thường lành tính nhưng đôi khi gây ra những biến chứng nguy hiểm, do đó nên cho trẻ đi khám tại các cơ sở y tế nếu trẻ sốt cao, dùng thuốc hạ sốt không đỡ, nốt phỏng nước bội nhiễm, trẻ vật vã, kích thích, co giật, hôn mê ...
Tối ưu nhất là chủ động phòng bệnh bằng cách tiêm vắc-xin cho trẻ em và người lớn chưa có miễn dịch với thủy đậu, đặc biệt là phụ nữ muốn chuẩn bị mang thai nên tiêm phòng thủy đậu vì khi mang thai mắc bệnh thủy đậu có thể trẻ sinh ra bị dị tật bẩm sinh.
Hiện nay đã có vắc-xin phòng bệnh thủy đậu tiêm phòng từ rất sớm khi trẻ được 9 tháng tuổi trử lên, nên cho trẻ chủ động tiêm phòng nhằm tránh lây nhiễm trong các đợt dịch bệnh thủy đậu. Tại Việt Nam, có một số loại vắc-xin phòng thủy đậu như: Varicella (Hàn Quốc), Varivax (của hãng MSD- Mỹ), Varilrix (của hang GSK- Bỉ) với phác đồ tiêm như sau:
- Varilrix: tiêm từ 9 tháng tuổi trở lên, với phác đồ 2 mũi cách nhau tối thiểu 6 tuần.
- Varivax: tiêm từ 12 tháng tuổi trở lên.
- Đối với trẻ từ 12 tháng tuổi đến dưới 13 tuổi: thông tin kê toa là tiêm 1 liều duy nhất nhưng với tình hình dịch bệnh tại Việt Nam nên tiêm 2 liều để bảo vệ trẻ tốt hơn. Theo nghiên cứu của hãng thì liều thứ 2 có thể cách liều thứ nhất ít nhất là 3 tháng nhưng theo CDC, WHO thì có thể tiêm liều thứ 2 khi trẻ 5-6 tuổi, tức là cách liều 1 khoảng 4 năm để tăng hiệu quả phòng bệnh.
- Đối với trẻ từ 13 tuổi trở lên: tiêm 2 liều cách nhau 4-8 tuần.
- Varicella: tiêm từ 12 tháng tuổi trở lên
- Đối với trẻ từ 12 tháng tuổi đến dưới 13 tuổi: thông tin kê toa là tiêm 1 liều duy nhất nhưng theo CDC, WHO thì có thể tiêm liều thứ 2 khi trẻ 5-6 tuổi, tức là cách liều 1 khoảng 4 năm để tăng hiệu quả phòng bệnh.
- Đối với trẻ từ 13 tuổi trở lên: tiêm 2 liều cách nhau 6-8 tuần